Virus Marburg là gì?
Virus Marburg (Marburg Virus Disease – MVD) là một loại virus RNA thuộc họ Filovirus, cùng họ với virus Ebola. Nó là một loại virus chuyển từ động vật sang người, gây ra cả triệu chứng sốt xuất huyết và xuất huyết nghiêm trọng ở nhiều bộ phận trong cơ thể.
Vật chủ ban đầu của virus Marburg là dơi ăn quả châu Phi (Rousettus aegyptiacus). Qúa trình phơi nhiễm bắt đầu từ việc Dơi ăn quả nhiễm virus Marburg sau đó lây lan sang người qua nhiều cơ chế khác nhau như:
- Tiếp xúc với phân hay dịch tiết của dơi.
- Lây lan qua đường tình dục (quan hệ bằng miệng, hậu môn, âm đạo).
- Lây nhiễm từ mẹ sang con ( thông quan nhau thai, nước ối, sữa mẹ cho con bú ).
Nếu một người bị nhiễm virus Marburg, việc tiếp xúc trực tiếp (qua da trầy xước hoặc niêm mạc) với máu, chất tiết, hoặc các bộ phận nội tạng của người bệnh có thể gây lây nhiễm. Hơn nữa, nguy cơ lây nhiễm cũng có thể xảy ra thông qua tiếp xúc gián tiếp với dịch cơ thể, bao gồm cả trên bề mặt hoặc dụng cụ (như quần áo, drap giường) bị nhiễm virus. Ngoài ra, việc tiếp xúc với thực phẩm bị nhiễm virus cũng có thể là nguồn lây nhiễm.
Khi các loài linh trưởng, bao gồm cả con người, mắc phải bệnh này, họ có thể phát triển các triệu chứng nghiêm trọng và tỷ lệ tử vong cao, tương tự như trong trường hợp của virus Ebola.
Người mắc phải virus Marburg sẽ có những triệu chứng sau:
- Ngay từ khi bắt đầu, bệnh nhân có thể gặp sốt cao, đau đầu, đau họng, mệt mỏi nặng và đau cơ một cách đột ngột. Từ ngày thứ 3, tiêu chảy nước, đau bụng, nôn mửa và buồn nôn có thể xuất hiện. Tình trạng tiêu chảy có thể kéo dài trong suốt một tuần.
- Triệu chứng nghiêm trọng hơn bao gồm vàng da, viêm tụy, suy cân nặng, mất ý thức, sốc, suy gan, xuất huyết mạnh và rối loạn chức năng đa cơ quan. Trong giai đoạn này, người bệnh có vẻ giống như “thây ma” với khuôn mặt lạnh lùng, mắt thâm quầng và trống rỗng.
- Trong vòng 7 ngày đầu, nguy cơ xuất huyết là rất cao và có thể xảy ra ở nhiều cơ quan khác nhau. Xuất huyết trong tiêu hóa có thể dẫn đến nôn máu, tiêu ra máu tươi và thường đi kèm với chảy máu mũi, răng hay xuất huyết âm đạo. Xuất huyết tự nhiên hoặc xuất huyết nơi tiêm chích cũng có thể xảy ra một cách nghiêm trọng. Ngoài ra, bệnh có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh, gây sốt cao, lú lẫn, kích thích và kích động.
- Trong khoảng 15 ngày sau khi bệnh bùng phát, bệnh nhân có thể trở nên mắc sẩn hồng ban, thường xuất hiện trên thân, bao gồm ngực, lưng và bụng trên. Viêm tinh hoàn cũng có thể xuất hiện trong giai đoạn này.
Đáng lo ngại, bệnh Marburg có thể gây tử vong sau khoảng 7-8 ngày kể từ khi bệnh xuất hiện do mất máu hoặc sốc. Các triệu chứng tiến triển nặng bao gồm vàng da, viêm tụy, suy gan, suy cơ quan đa hệ và xuất huyết nặng.
Những triệu chứng trên rất khó phân biệt bằng mắt thường để xác định đúng bệnh, thường có những biểu hiện lâm sàng giống với sôts rét thường, sốt thương hàn, viêm màng não…Chính vì khó phân biệt, nếu để chậm trễ trong việc chuẩn đoán bệnh rất dễ gây tử vong cho người bệnh, dẫn đến nguy cơ lây nhiễm cao cho cộng đồng người dân.
Vậy có cách nào để có thể nhận biết sớm việc bị phơi nhiêm virus Marburg?
Trong giai đoạn ban đầu của việc nhiễm virus Marburg, việc phát hiện virus có thể được thực hiện thông qua việc lấy mẫu từ họng và mũi, dịch não tủy, nước tiểu và/hoặc máu. Sau đó, các mẫu này có thể được phân tích bằng các phương pháp chẩn đoán sau đây:
- Xét nghiệm ELISA (enzyme-linked immunosorbent assay): Sử dụng để phát hiện kháng thể phản ứng với virus Marburg trong mẫu thử.
- Xét nghiệm phát hiện kháng nguyên: Dùng để tìm kiếm sự hiện diện của các kháng nguyên virus Marburg trong mẫu thử.
- Xét nghiệm trung hòa huyết thanh: Đánh giá khả năng của huyết thanh trong việc trung hòa virus Marburg.
- Xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR): Sử dụng để phát hiện và sao chép đoạn gene của virus Marburg từ mẫu thử, giúp xác định sự hiện diện và phân loại chính xác virus.
- Phân lập virus bằng nuôi cấy tế bào: Sử dụng để cấy mẫu thử lên các dòng tế bào thích hợp để phát hiện và phân lập virus Marburg.
Các phương pháp chẩn đoán này được sử dụng để xác định virus Marburg và đóng vai trò quan trọng trong quá trình chẩn đoán và theo dõi bệnh nhân.
Hiện tại, chưa có loại vaccine nào được phê duyệt sử dụng để phòng ngừa bệnh do virus Marburg – một căn bệnh có tỷ lệ tử vong rất cao.Theo các chuyên gia y tế, để phòng ngừa nhiễm virus Marburg hiệu quả, có thể áp dụng các biện pháp sau:
- Tránh tiếp xúc hoặc đến nơi cư trú của loài dơi ăn quả châu Phi, động vật hoang dã bị nhiễm virus như khỉ, linh dương rừng, và các loài gặm nhấm khác.
- Không ăn hoặc tiêu thụ thịt của động vật hoang dã.
- Nấu chín kỹ thực phẩm trước khi ăn, đặc biệt là các loại thịt.
- Hạn chế tiếp xúc với những người nghi nhiễm hoặc bị nhiễm virus Marburg.
- Hạn chế tiếp xúc với người nghi nhiễm, đặc biệt khi mặc áo bảo hộ, đeo găng tay, khẩu trang, mắt kính và rửa tay thường xuyên.
- Thận trọng khi tiếp xúc với các chất thải như máu, nước bọt, nước tiểu, phân hoặc bất kỳ vật dụng nào của người bệnh.
- Những biện pháp này giúp giảm nguy cơ lây nhiễm và phòng ngừa sự lan rộng của virus Marburg.